Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2015

9 điểm đến ở Buôn Ma Thuột đẹp ‘không thể tin nổi’

Nhắc đến Buôn Ma Thuột, người ta thường nghĩ ngay đến những cánh đồng cà phê bạt ngàn. Không chỉ vậy, Buôn Mê Thuột còn hút hồn khách du lịch bởi những con thác cao ngất hùng vĩ, những vườn quốc gia mênh mông bí ẩn hay vẻ đẹp của dòng Serepôk huyền thoại. Hãy cùng khám phá Buôn Ma Thuột nếu bạn đang có ý định du lịch đến đây nhé.

9 điểm đến ở Buôn Ma Thuột đẹp ‘không thể tin nổi’

1. Cụm thác Gia Long, Dray Nur, Dray Sap
Hệ thống 3 thác: Gia Long – Dray Nur – Dray Sap thuộc sông Serepôk, xã Nam Hà, huyện Krông K’Nô, tỉnh Đắk Nông. Thác Dray Nur nằm cách thành phố Buôn Ma Thuột 25 km đi theo quốc lộ 14, qua thủy điện Buôn Kôp gần 3 km, đây là một ngọn thác hùng vĩ mà thiên nhiên đã ban tặng cho Đắk Lắk.
Thác Đray Nur. Ảnh: PVHuong
Thác Đray Nur. Ảnh: PVHuong
Dray Nur nghĩa là thác cái. Vì thế thác còn có tên thông tục là thác Vợ, thác này cũng được gọi Dray Nur thượng. Dray Nur nằm ngay cạnh thác Dray Sap (hay còn gọi là thác Chồng) và chỉ cách Dray Sap một đoạn cầu treo bắt qua dòng sông Serepôk. Cả hai đều là những thác nước đẹp và hùng vĩ.
Thác Dray Sap. Ảnh: Vũ
Thác Dray Sap. Ảnh: Vũ
Thác Dray Nur được ít người biết đến vì lầm tưởng nằm trong cụm thác Dray Sap nhưng thực ra dòng sông Serepôk chia ra làm 2 nhánh nhỏ đổ xuống hai dòng thác và nhập lại ở phía dưới, cách đó không xa.
2. Buôn Đôn
Cưỡi voi ở buôn Đôn. Ảnh: giadinhruby
Cưỡi voi ở buôn Đôn. Ảnh: giadinhruby
Buôn Đôn là một làng trên cao nguyên nằm ở xã Krông Na, huyện Buôn Đôn. Xưa kia nói tới Buôn Đôn là nói tới cả một khu vực rộng lớn, vươn dài theo dòng sông Serepôk quanh năm nước chảy hiền hòa, con gái, con trai, người già, trẻ nhỏ say sưa với những vũ điệu dân gian trong lễ hội cùng nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng nổi tiếng.
Cầu treo vào buôn. Ảnh: bestprice
Cầu treo vào buôn. Ảnh: bestprice
Đến Buôn Đôn, bạn có thể tìm hiểu đời sống văn hóa, phong tục, sinh hoạt của nhiều dân tộc, thăm kiến trúc mộ Khunjunop, du lịch dã ngoại bằng voi trên sông Serepôk, thăm Vườn quốc gia Yok Dôn với khu bảo tồn động thực vật quý hiếm. Ngoài ra từ Buôn Đôn, du khách có thể dùng thuyền độc mộc xuôi dòng Serepôk, đến thăm và du ngoạn ở thác 7 nhánh. Nếu khách có nhu cầu tìm hiểu văn hóa, phong tục, những chủ nhân ở Buôn Đôn có thể tổ chức một đêm lễ hội, uống rượu cần với sinh hoạt văn hóa dân gian truyền thống.
3. Hồ Lắk
Hồ Lak. Ảnh: Kiên Huyện
Hồ Lak. Ảnh: Kiên Huyện
Nói đến Đắk Lắk, người ta thường nhắc đến huyền thoại về hồ Lắk – một trong những hồ nước ngọt tự nhiên lớn, nối với sông Krông Ana, rộng khoảng 500ha, nằm ở độ cao hơn 500m so với mặt nước biển. Nơi đây đang là điểm du lịch sinh thái độc đáo thu hút du khách trong và ngoài nước, với một vẻ đẹp tự nhiên thơ mộng của núi và rừng bao quanh.
Hoàng hôn buông bên hồ Lắk – Ảnh: Lư Quyền
Hoàng hôn buông bên hồ Lắk – Ảnh: Lư Quyền
Hồ Lắk ngay cái tên đã nói lên vẻ đẹp huyền bí. Ngoài cảnh đẹp tự nhiên, không khí trong lành cùng những cuộc phiêu lưu hồ nước trên bành voi và thuyền gỗ với những chuyến dã ngoại khám phá nét văn hoá, đặc sắc của dân làng Mơ Nông, đã, đang và sẽ đưa hồ Lắk trở thành điểm đến không thể thiếu trong các tour du lịch Đắk Lắk nói riêng và khu vực Tây Nguyên nói chung.
4. Nhà thờ Thánh Tâm
Nhà thờ chánh tòa. Ảnh: foursquare
Nhà thờ chánh tòa. Ảnh: foursquare
Nhà thờ Thánh Tâm nằm ở số 02 đường Phan Chu Trinh, phường Tân Lợi là nhà thờ chính tòa của giáo phận Buôn Ma Thuột. Với thiết kế như nhà dài Ê-đê và hoàn toàn bằng gỗ, nhà thờ cũng là nơi đáng để đến và chụp hình lưu niệm bởi lối kiến trúc rất “dân tộc”. Nhà thờ có chiều dài 45m, rộng 12m. Tổng diện tích 828m², trừ cung thánh, với sức chứa 1.200 chỗ ngồi.
Toà Giám Mục Buôn Ma Thuột. Ảnh: ST
Toà Giám Mục Buôn Ma Thuột. Ảnh: ST
Ban đầu khoảng 45 hộ trong khu vực gần nhà thờ và ở rải rác trong các đồn điền, từ nhiều địa phương đến. Sau phong trào di cư năm 1954, số giáo dân đã lên đến 4.000. Hiện nay số giáo dân trên 11.000 người. Đời sống kinh tế của bà con giáo dân đa dạng với nhiều ngành nghề: buôn bán, làm nông, công nhân viên, bác sĩ, kỹ sư,…
5. Hồ Ea Kao
Hồ EaKao. Ảnh: Kem Đá
Hồ EaKao. Ảnh: Kem Đá
Hồ nằm cách trung tâm TP Buôn Ma Thuột 12km về hướng Đông Nam, thuộc địa phận xã Ea Kao, được hình thành từ việc chặn các dòng suối Ea Knin, Ea Kao, Ea Chăt, Cư Mblim… để xây dựng công trình thủy lợi phục vụ tưới tiêu cho lúa và cà phê.
Ảnh: ArTuan
Ảnh: ArTuan
Điều thú vị, tuy là công trình thủy lợi vận hành từ năm 1983 nhưng đến nay, không gian hồ Ea Kao vẫn mang đậm nét hoang sơ. Dưới lòng hồ là hệ sinh thái đa dạng với nhiều loài cá, tôm nước ngọt. Xung quanh hồ là những dãy núi đồi trập trùng cùng hệ thực vật phong phú với những cánh rừng còn nhiều cây cổ thụ.
Vào những ngày đầu tháng 6, mực nước trên hồ Ea Kao đang ở mức thấp để lộ những doi đất đỏ mềm mại, cỏ mọc xanh rì biến nơi đây trở thành điểm đến lý tưởng để người dân và du khách tới ngoạn cảnh và thư giãn.
6. Thác Thủy Tiên
Thác Thủy Tiên. Ảnh: HiVietnam
Thác Thủy Tiên. Ảnh: HiVietnam
Thác Thủy Tiên hay còn gọi là thác Ba Tầng là một thác nước ở Đắk Lắk, thác nằm ở xã Ea Puk, huyện Krông Năng. Đây là một thắng cảnh đẹp, hoang sơ giữa núi rừng với vô vàn những tảng đá nằm gối chồng lên nhau và những rễ cây rừng đan kín trông rất lạ mắt.
Do có 3 tầng nước đổ nên còn gọi là thác Ba Tầng. Tầng thứ nhất hẹp, có độ dốc nhỏ với những bậc lên xuống dễ dàng. Tầng thứ hai trải rộng với nhiều bậc đá, và có những mặt hồ nước cạn có thể tắm được. Tầng thứ ba nước từ trên cao đổ xuống một mặt hồ rộng và sâu, tung bọt trắng xóa rồi trở về lại với dòng chảy hiền hòa, uốn lượn giữa đại ngàn xanh thẳm.
Ảnh: Panoramio
Ảnh: Panoramio
So với các thác nước khác của Đắk Lắk như hệ thống thác Gia Long… thác Thủy Tiên ít được mọi người biết đến do không thuận tiện về đường đi lại. Tuy nhiên với vẻ đẹp của mình và sau khi quốc lộ đi Phú Yên ngang qua đây được nâng cấp, thác đã được nhiều người tìm đến hơn để chiêm ngưỡng và thưởng ngoạn vẻ đẹp hoang sơ của nó.
7. Buôn Ako Dhong
Kiến trúc nhà dài trong buôn Ako Dhong. Ảnh: dhungcafe
Kiến trúc nhà dài trong buôn Ako Dhong. Ảnh: dhungcafe
Buôn Ako Dhong (thường gọi là Cô Thôn) nằm về phía Bắc, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột khoảng trên dưới 2km.
Ảnh: panoramio
Ảnh: panoramio
“Ako” tiếng Ê Đê có nghĩa là đầu nguồn, “Dhong” là lũng. Ako Dhong là lũng đầu nguồn. “Buôn lũng đầu nguồn” ăn nước con suối Ea Nhôn, có tiếng là buôn giàu có, còn được gọi là “Buôn nhà ngói” hay “Buôn Ama Rin”. Các lễ hội được già làng Ama Rin tổ chức thường xuyên, lời ca, điệu nhạc, múa truyền thống luôn vang lên dưới mái nhà dài. Sắc màu của vùng đất cao nguyên vẫn luôn thắm mãi ở buôn Ako Dhong, đã hấp dẫn nhiều lượt du khách khi đặt chân đến vùng đất bazan này.
8. Vườn quốc gia Chư Yang Sin
Vườn quốc gia Chư Yang Sin. Ảnh: Báo Daklak
Vườn quốc gia Chư Yang Sin. Ảnh: Báo Daklak
Nằm ở điểm cuối cùng của dãy Trường Sơn thuộc khu vực Nam Tây Nguyên và là một phần của Vùng chim đặc hữu của Cao Nguyên Đà Lạt, Vườn Quốc gia Chư Yang Sin có hệ sinh thái thực vật đa dạng, độc đáo và có tính đặc hữu cao. Là vùng chuyển đổi giữa hai vùng đồng bằng và cao nguyên Nam Trung Bộ nên địa hình Vườn quốc gia Chư Yang Sin được chia cắt mạnh và được rừng che phủ trên đai cao (từ khoảng 600m đến 2.442m).
Ảnh: wikipedia
Ảnh: wikipedia
Điều này đã tạo cho Vườn quốc gia Chư Yang Sin có một phong cảnh vô cùng ngoạn mục với hơn 40 dãy núi cao, thấp khác nhau, có nhiều sườn dốc, những thảm rừng mênh mông và nhiều suối, ghềnh, thác đan xen, trùng điệp. Trong đó, dãy Chư Yang Sin chạy theo hướng Đông – Tây, chia vườn thành hai khu Bắc – Nam là dãy núi cao nhất, với đỉnh cao 2.442m. Đỉnh Chư Yang Sin đã được mệnh danh là nóc nhà thứ hai của Tây Nguyên, sau đỉnh Ngọc Linh ở tỉnh Kon Tum.
9. Vườn quốc gia Yok Don
Yok Don là một trong những khu bảo tồn tự nhiên lớn nhất của Việt Nam là nơi sinh sống của nhiều loài thú lớn như bò rừng, bò tót, trâu rừng, voi, khỉ, vượn, hổ, báo, công, gà lôi, diều hâu…
Màu rừng đặc trưng vào mùa khô của rừng quốc gia Yok Đôn – Ảnh: Hữu Thành
Màu rừng đặc trưng vào mùa khô của rừng quốc gia Yok Don – Ảnh: Hữu Thành
Ngoài ra, vườn quốc gia Yok Don còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc Tây Nguyên như Ê đê, M’Nông, Lào…
Vẻ đẹp bình yên của Yok Don. Ảnh: fareastour
Vẻ đẹp bình yên của Yok Don. Ảnh: fareastour
Du khách đến vườn quốc gia sẽ được tận hưởng các loại hình du lịch sinh thái đặc trưng như cưỡi voi, đi bộ, đi xe đạp địa hình trong những cánh rừng nguyên sinh. Đặc biệt ban đêm có thể đi xem các loài thú hoang dã. Ban ngày có thể du thuyền độc mộc trên dòng sông Serepôk thơ mộng, tham quan các buôn làng của các dân tộc bản địa Tây nguyên, uống rượu cần, thưởng thức âm thanh của các dàn nhạc cồng chiêng huyền thoại.

Chủ Nhật, 24 tháng 5, 2015

Mừng lễ Phật Ðản

Mừng lễ Phật Ðản



Lễ Phật Ðản là ngày vui của Phật tử trên toàn thế giới. Chúng ta đón mừng ngày Phật Ðản để tưởng niệm đến Ðấng Cha Lành. Với lòng từ bi vô hạn, Ngài đã hành đạo nhiều vô số kiếp hầu tìm ra con đường giải thoát cho Ngài và chúng sanh. Từ khi Ðức Phật ra đời, loài người và chư thiên được hưởng rất nhiều phước báu trong thế gian lẫn xuất thế gian. Giáo Pháp của Ngài là món linh dược mà bất cứ ai thực hành theo đều đạt được hạnh phúc và đi đến nơi giải thoát bình yên. Hôm nay, nhân ngày Lễ Phật Ðản, chúng ta ôn lại vài điểm chính trong đời sống của Ngài.
Khởi thủy
Một vị bồ tát từ ngàn xưa với tâm từ bi muốn cứu độ chúng sanh thoát khỏi chốn đau khổ mê lầm, đã dày công thực hành mười pháp ba-la-mật trong vô lượng kiếp. Ngài nguyện chứng đắc đạo quả Chánh Ðẳng Chánh Giác để đem lại con đường giải thoát cho chúng sanh.
Giáng sanh
Thấy duyên chứng ngộ đạo quả Bồ-đề đã đầy đủ, Ðức Bồ-tát giáng sanh xuống cõi Ấn Ðộ, vào bào thai của Hoàng Hậu Maya, vợ Vua Tịnh Phạn thuộc dòng Thích Ca. Lúc bấy giờ, Ấn Ðộ là một nước rất văn minh, có Tịnh Phạn Vương là bậc hiền nhân và Hoàng Hậu Maya là người tài sắc, đức hạnh vẹn toàn.
Ðản sanh
Gần mười tháng sau, một buổi sáng khi Hoàng Hậu đang cùng người hầu trên đường về quê mẹ để chuẩn bị cho kỳ sinh nở, nàng vào nghĩ chân ở vườn Lâm Tỳ Ni. Cảnh vườn tuyệt đẹp. Cây cao, bóng mát, chim xanh ríu rít, hoa nở khắp nơi. Khi nàng đến vịn vào cây sala, Ðức Bồ-tát liền nhẹ nhàng đản sanh. Ngài vững vàng bước đi bảy bước, tuyên bố:
"Trên thiên giới, dưới người trần thế,
Chỉ có ta cao quí phi thường.
Thân này kiếp chót Pháp Vương,
Không còn trở lại con đường tử sanh."
Ðất trời hoà nhạc, muôn hoa đón chào. Ánh quang minh tỏa rực khắp nơi nơi, mọi chúng sanh nghe lòng hoan lạc. Quả đất động lòng rung chuyển. Chư thiên rãi hoa kính mừng. Ðức Bồ-tát đã đản sanh! Ấy nhằm ngày rằm tháng tư, âm lịch, cách đây 2543 năm.
Ba mươi hai tướng tốt và tám mươi tướng phụ trên thân Ngài chứng tỏ Ngài là bậc Ðại Nhân sau này sẽ chứng đắc Phật quả chẳng sai. Cõi nhân thiên đang sắp hưởng hạnh phúc tuyệt vời. Không bao lâu Ngài sẽ đắc đạo quả Vô Thượng Cháng Ðẳng Cháng Giác và truyền bá con đường hạnh phúc Ngài tìm thấy được cho chúng sanh. Ðó là con đường giải thoát đưa chúng sanh ra khỏi chốn khổ não mê lầm.
Trưởng thành
Lớn lên, Ngài là một vị Hoàng Tử đẹp trai, văn võ toàn tài, thông minh xuất chúng. Vua cha cưng chìu hết mực. Ngài cho xây ba tòa cung điện thật đẹp để Hoàng Tử ở theo ba mùa nóng, lạnh và mưa. Lại còn thêm ba hồ sen xanh, đỏ, trắng tỏa ngát sắc hương. Vườn hoa xinh đẹp luôn được chăm sóc cẩn thận với muôn ngàn hoa thơm cỏ lạ. Trầm hương Ngài dùng đều được chọn lựa cẩn thận. Y phục Ngài mặc đều là lụa thượng hảo xứ Kasi. Ðội vũ nhạc xinh đẹp luôn luôn đem niềm vui cho Hoàng Tử. Bao vây Ngài toàn là những thứ thích ý vừa lòng. Tất cả những gì xấu xa, khổ đau, già úa đều bị cấm diễn ra trước mắt Ngài. Nhưng Ngài không say đắm trong những xa hoa này. Trong tâm Ngài, lòng từ bi lúc nào cũng ngút ngàn và trí tuệ luôn sáng tỏ.
Xuất gia
Nhân duyên đưa đến. Một hôm khi cùng người hầu ngự xe ngựa đi dạo phố, tình cờ Ngài gặp cảnh già, bệnh, chết. Nhận thức rằng cuộc đời này thật không bền vững, nó bị sự chi phối của vô thường và khổ não mà sự vinh hoa chẳng qua chỉ là một chút hạnh phúc ảo huyền, nên từ đó Ngài hằng suy tư tìm cách thoát khổ. Rồi Ngài gặp một vị sa môn trong chiếc y vàng đang an tịnh tỉnh lặng đi ngoài đường. Ðến gần đón hỏi, vị sa môn bảo rằng:
"Cuộc đời thống khổ ưu phiền,
Nên tu để thoát con đường tử sanh."
Nghe chữ xuất gia tầm đạo giải thoát, tâm Hoàng Tử bừng sáng liền nhận định rõ con đường. Một đường theo ái dục đi về tử sanh bệnh lão. Một đường xả ly đi về giải thoát bình an. Lòng Ngài hớn hở. Chí Ngài đã quyết xuất gia.
Cùng lúc ấy, Ngài được tin vợ Ngài, Công Chúa Gia-Du-Ðà-La, đã hạ sanh được một Hoàng Nam. Một người cha bình thường khi nghe tin đứa con đầu lòng ra đời thì vui mừng khấp khởi. Nhưng Ðức Bồ-tát thì ngược lại. Ngài than rằng: "Dây trói buộc đã sanh ra!" Vì vậy, Ngài đặt tên con mình là Rahula, có nghĩa là "Dây Trói Buộc".
Chí xuất gia vẫn không giảm sụt trong tâm ý Ngài. Vào lúc nữa đêm, Ngài yên lặng đến nhìn vợ con lần cuối trước khi giã từ. Lòng từ của Ngài đối với họ thật nhiều. Nhưng tâm từ bi của Ngài đối với chúng sanh đau khổ còn nhiều hơn. Ngài muốn cho mọi người thật nhiều hạnh phúc. Và điều hạnh phúc ấy là hạnh phúc thoát khỏi vòng sanh tử, chấm dứt mọi khổ đau.
Hoàng cung đêm nay thật yên tĩnh. Mọi người đang ngủ say. Ðêm khuya trong vắt như pha lê. Trên trời lấp lánh muôn ngàn vì sao dẫn lối. Với ngọn đuốc thiêng rực sáng trong tim mình, Ngài thắng ngựa thẳng tiến vào màn đêm.
Tầm đạo
Ðức Bồ-tát xuất gia vào lúc hai mươi chín tuổi. Trên đường tầm đạo, đầu tiên Ngài đến học nơi đạo sĩ A-La-Ra. Với kỹ thuật hành thiền của đạo sĩ, không bao lâu Ngài đắc sở học tối cao của vị này, đó là chứng thiền vô sở hữu xứ. Ðây là cõi thiền vô sắc, rất hạnh phúc bình an. Nhưng Ngài biết rằng sự chứng đạt này vẫn còn nằm trong vòng sanh tử. Không thỏa mãn, Ngài đi tìm đường lối tu luyện cao siêu hơn.
Gặp đạo sĩ U-Ða-Ka, trong vài ngày hành thiền, Ngài cũng đạt sở học tối hậu của vị này, đó là chứng thiền phi-tưởng-phi-phi-tưởng. Ðây là mức chứng đạt cao nhất mà các đạo sĩ thời ấy có thể đạt được.
Xét lại tâm mình, Ngài thấy ô nhiễm não phiền vẫn chưa dứt bỏ. Ngài biết rằng mức độ chứng đạt này cũng vẫn còn nằm trong phạm vi sanh tử của thế gian. Ngài từ giã thầy U-Ða-Ka, quyết chí tự mình tìm đường đạo.
Gặp năm vị đạo sĩ đang chuyên cần tu theo phương pháp khổ hạnh, Ngài cũng thực hành theo. Sáu năm tinh tấn hành khổ hạnh, Ngài chịu nóng, chịu lạnh, thực hành nhiều cách khổ đau. Ăn uống quá ít oi, một hôm Ngài đuối sức té ngã gần như chết. Tỉnh lại, nhận thức rằng con đường khổ hạnh hành xác không phải là con đường giải thoát, Ngài tắm rửa rồi dùng thực phẩm trở lại. Từ đó Ngài chọn lối tu bằng con đường Trung Ðạo, là con đường không theo ái dục, cũng chẳng ngã về khổ hạnh hành hạ xác thân.
Thành đạo
Một hôm, khi đang ngồi tham thiền dưới gốc đại thọ, Ngài được nàng Sujata để cơm sữa đề hồ trong bát vàng dâng cúng. Dùng cơm xong, Ngài thả bát vàng xuống sông phát nguyện: "Nếu như ta chứng được đạo quả bồ-đề thì bát vàng hãy trôi ngược dòng sông!" Thật nhiệm mầu! Cái bát như có linh tính liền ngược dòng trôi trở lên.
Phấn khởi, Ðức Bồ-tát chọn ngồi tham thiền dưới một cội cây tỏa bóng râm rộng lớn. Ngài nguyện: "Cho dù thịt có khô và máu có cạn, nếu không giác ngộ ta quyết không rời nơi đây!".
Với lời nguyện vững chắc, Ngài tĩnh tọa tham thiền dưới cây đại thọ. Không bao lâu tâm Ngài đi vào các tầng thiền định mà lúc trước Ngài đã thành công. Trong đêm khuya yên lặng, với tâm định tỉnh, thanh tịnh, nhẹ nhàng, Ngài dùng chánh niệm quán chiếu sự sanh diệt trong nhiều kiếp trước. Ngài thấy một kiếp, hai kiếp, rồi mười kiếp, hai mươi kiếp, rồi hai ngàn kiếp, hai trăm ngàn kiếp. Ngài thấy vô số kiếp. Ngài thấy sự sanh diệt của thế giới, hết thế giới này đến thế giới khác, các thế giới nối tiếp nhau sanh diệt không cùng. Ðây là Túc Mạng Minh mà Ngài chứng được trong canh đầu.
Những gì không biết về quá khứ đã được tận diệt. Minh tuệ phát triển, Ngài hướng chánh niệm quán sát sự sanh diệt của chúng sanh. Với tuệ nhãn thanh tịnh, Ngài thấy chúng sanh chết chổ này tái sanh chổ kia. Ngài thấy chúng sanh trong các nẻo tử sanh thọ khổ thọ lạc tùy theo nghiệp báo. Người giàu sang quí phái, kẻ hạ tiện bần cùng, mỗi mỗi đều thọ nhận quả báo do nhân lành hoặc dữ mà họ đã tạo. Nghiệp tốt hay xấu đi theo họ như bóng theo hình. Những ai sống theo đường lối tà vạy, cướp của, giết hại chúng sanh, tà dâm vọng ngữ, uống rượu mê say phải bị đọa sanh vào ác đạo. Những ai có chánh kiến, biết hướng thượng, có bố thí, trì giới, tham thiền thì được tái sanh làm người giàu sang hay thành chư thiên hưởng hạnh phúc dài lâu. Ðây là Thiên Nhãn Minh mà Ngài đắc được vào canh hai.
Những gì không biết về tương lai đã được xóa tan. Trí tuệ Ngài càng sáng tỏ. Ngài hướng chánh niệm nhìn vào sự tận diệt của ô nhiễm trong tâm. Ngài thấy rõ rằng: "Ðây là khổ, đây là nguyên nhân sanh khổ, đây là sự chấm dứt đau khổ, và đây là con đường dẫn đến nơi tận diệt mọi khổ đau". Trí tuệ này là Lậu Tận Minh, biết rằng đã hoàn toàn diệt sạch ô nhiễm trong tâm. Ðạo quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác đã viên thành.
Lang thang bao kiếp luân hồi,
Tìm không gặp kẻ xây ngôi nhà này!
Ôi! Ðời sống thật buồn thay!
Bèo mây bến cũ vần xoay lối về.

Hỡi này anh thợ nhà kia!
Rui, mè, kèo, cột gãy lìa nát tan.
Bao tham ái thảy tiêu tan
Tâm ta thắng đạt Niết-bàn thảnh thơi.

(Pháp Cú câu 153-154 - Tâm Cao phổ thơ)
Sao mai vừa mọc. Ngày này cũng là ngày trăng tròn tháng tư âm lịch, đồng với ngày Ðức Bồ-tát đản sanh. Lúc này Ngài vừa tròn ba mươi lăm tuổi. Vầng dương quang hoan hỉ đón mừng vị Pháp Vương vừa thành đạo. Ðức Phật đã chứng đạt đạo quả Vô Thượng Bồ-đề. Tự thân Ngài hào quang sáu màu tỏa ra ngời sáng. Ngài sẽ đem lại con đường mà Ngài tìm ra cho chúng sanh.
Từ nay chúng sanh sẽ có duyên đi đến nơi dứt khổ như Ngài. Thật là hạnh phúc! Ðất trời trổi nhạc, muôn hoan đón mừng. Chư thiên từ muôn ngàn thế giới hội về rãi hoa đảnh lễ Ðức Phật. Họ hoan hô chúc mừng sự thành công của Ngài. Thành kính, chư thiên đảnh lễ Ngài: Namo tassa Bhagavato Arahato Samma-sambuddhassa. (Nghĩa: Con thành kính đảnh lễ Ðức Thế Tôn, Ngài là bậc cao thượng đã tận diệt ô nhiễm. Ngài đã tự tìm ra con đường giải thoát và đã được giác ngộ hoàn toàn).
Truyền đạo
Từ đó về sau, Ðức Phật không ngừng truyền bá giáo pháp của Ngài cho chúng sanh. Từ các hàng vua chúa thượng lưu đến những kẻ bần cùng trong ngõ hẹp, từ những dạ-xoa hung ác đến các vị chúa trời nhiều dục lạc và tà kiến phạm thiên, tùy theo căn duyên của chúng sanh mà Ngài hướng dẫn Con Ðường. Trong bốn mươi lăm năm hoằng pháp, Ngài đem lại hạnh phúc thoát khổ cho vô số chúng sanh. Ngài dạy chúng ta lý Tứ Diệu Ðế:
"Ðây là khổ
Ðây là nguyên nhân sanh khổ,
Ðây là sự dứt khổ,
Và đây là con đường đi đến nơi chấm dứt khổ đau."
Nhập Niết-bàn
Bốn mươi lăm năm sau, khi Ðức Phật được tám mươi tuổi, Ngài nhập Niết-bàn trước sự chứng kiến của rất nhiều Thánh Nhân đệ tử của Ngài, loài người lẫn chư thiên. Ngày ấy cũng là ngày rằm tháng tư âm lịch, cùng ngày Ðức Phật đản sanh và ngày Ngài chứng quả Bồ-đề.
Trước khi Ðức Phật nhập Niết-bàn, Ngài dạy: "Này Ananda, hãy lấy chính con làm hải đảo của con. Chính con làm nơi nương tựa cho con. Không nên ỷ lại nơi ai khác để làm chổ nương tựa. Hãy bám sát giáo pháp như một hải đảo. Bất luận ai, này Ananda, dầu trong hiện tại hay sau khi Như Lai đã viên tịch, lấy chính mình làm hải đảo cho mình, không nương tựa nơi nào ở ngoại cảnh, chính những người ấy trong nhóm môn đệ của Như Lai, này Ananda, sẽ đạt đến mức cao tuyệt đỉnh. Nhưng những người ấy phải tận lực gia công để tiến hóa".
Cuối cùng, trước khi giã từ, Ngài dạy: "Này các đệ tử, đây là điều ta dạy các con: Các pháp hữu vi thật không bền vững. Hãy chuyên cần tinh tấn hành đạo, chớ có dễ duôi".
Chúng ta cần phải làm gì?
Ðể tưởng niệm đến công ơn của Ðức Thế Tôn, chúng ta đón mừng ngày Ðức Phật đản sanh (cũng là ngày Ðức Phật thành đạo và nhập Niết-bàn). Ðây là ngày quan trọng nhất cho các hàng phật tử trên toàn thế giới. Chúng ta cúng dường hương hoa đến Ðức Thế Tôn, nguyện rằng mỗi mỗi chúng ta đều cố gắng thực hành theo lời dạy của Ðức Phật. Người Phật tử tại gia thì siêng năng thực hành bố thí, trì giới, tham thiền. Tu sĩ thì chuyên cần giữ giới, tham thiền, hướng tâm đến trí tuệ giải thoát.
Ðiều quan trọng thực tế là chúng ta cần có chánh kiến, tin tưởng và biết rõ nghiệp quả, làm phước hưởng phước, làm ác chịu khổ. Tà kiến cần được loại bỏ. Trong bốn mươi lăm năm Ðức Phật dạy đạo, Ngài luôn khuyên chúng ta nên tự mình tinh tấn tu hành để đi đến nơi thoát khổ.
Bát-Chánh Ðạo, con đường thoát khổ Ngài dạy đã rõ ràng. Vậy, chúng ta cần phải đi theo hướng chỉ của Ngài để đem lại hạnh phúc cho mình và người. Khi thật sự có thực hành Phật Pháp thì không những chúng ta đạt được nhiều hạnh phúc mà còn làm cho Giáo Pháp của Ðức Phật được truyền bá dài lâu. Có làm vậy thì chúng ta mới xứng danh là người con của Ðức Phật.
Pháp Bảo của Ðức Phật vẫn mãi còn với chúng ta. Mỗi khi thực hành Pháp Bảo, có chánh niệm đưa tâm về với sự bình yên trong sạch là chúng ta sống với tỉnh thức, với giải thoát, với Phật Ðà.
Cuối cùng, chúng ta đồng cầu nguyện cho mình và tất cả đều đạt được đạo quả giải thoát.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Sadhu! Sadhu! Lành thay!